Có những lúc hành giả thường trầm tư chiêm nghiệm về các vần thi kệ Pháp Cú, tập kinh điển mà dường như bất kỳ ai bước chân vào cửa Phật cũng từng ít nhất một lần tiếp cận. Với hơn bốn trăm câu kệ súc tích, dù không thể nhớ rõ từng con số chính xác, nhưng cái sự ngắn gọn của nó đôi khi lại làm mình thấy... nặng. Nó không hề nặng nề theo nghĩa khó tiếp cận về mặt tri thức, mà chính là trọng lượng của những chân lý trần trụi mà chúng ta thường có xu hướng né tránh.
Tôi từng lầm tưởng Pháp Cú là một chương thuyết pháp kéo dài, nhưng thực tế lại hoàn toàn khác biệt. Tác phẩm bao gồm những vần thơ đạo lý được đúc kết từ những tình huống thực tế mà Đức Thế Tôn đã kinh qua —từ việc an ủi những tâm hồn sầu khổ, răn dạy những người đang sân hận, đến chỉ đường cho kẻ mất phương hướng. Tập kinh này nằm trong Khuddaka Nikaya, tập hợp vốn mang ý nghĩa là "nhỏ bé" trong Kinh Tạng.
Nhưng thực ra nó gói gọn hết thảy những gì cốt lõi nhất về tâm, về nghiệp, về cái cách mà mình đang vận hành cuộc đời mình mỗi ngày. Cái ý "tâm dẫn đầu các pháp" cứ lảng vảng trong đầu mình mãi, nhất là khi phải đối mặt với những nghịch cảnh bủa vây. Nó là lời nhắc nhở rằng mọi hành động và ngôn từ đều khởi nguồn từ trạng thái ý nghiệp bên trong. Không có bất kỳ đấng siêu hình nào có quyền trừng trị hay ban phát phước lành cho ta, mà đơn giản là quy luật nhân quả: gieo nhân nào thì gặt quả nấy một cách tự nhiên.
Có những đêm không ngủ được, mình lật vài trang, đọc một hai câu thôi mà thấy như đang soi gương vậy. Dù là người tu tập thiền định hay cư sĩ bận rộn với đời sống thường nhật, các bài thi kệ ấy chính là chiếc la bàn định hướng tâm linh. Nó không mang tính chất lý luận chi tiết hay học thuật như Abhidhamma. Nó chỉ đơn giản kêu gọi chúng ta hãy quán chiếu nội tâm ngay trong thực tại hiện tiền.
Tôi đã thấu hiểu lý do tại sao Kinh Pháp Cú lại được sùng kính đặc biệt trong hệ phái Phật giáo Nguyên thủy. Từ các vị Sa-di mới tu đến các bậc Trưởng lão, tất cả đều trân trọng và kinh phap cu theravada thuộc nằm lòng những lời dạy này. Chắc là vì giữa cái thế giới quá nhiều tiếng ồn này, người ta cần một cái gì đó thật sự cô đọng, một phương pháp tiếp cận trực tiếp thực tại mà không cần thông qua quá nhiều tầng lớp lý luận.
Thật ngạc nhiên khi nhận ra những lời răn dạy cổ xưa vẫn vô cùng tương thích với bối cảnh tâm lý của con người hiện đại. Có lẽ bởi bản chất của nỗi khổ niềm đau nhân sinh là không thay đổi qua mọi thời đại, và cái tâm của mình thì vẫn cứ loay hoay với những tham, những sân, những si như thế thôi.